Người chị em ấy đã đi vào thơ trằn Đăng Khoa, đơn giản và giản dị tự nhiên như khu đất đai, như phân tử lúa, hạt phù sa quê hương: Hạt gạo buôn bản ta. Có vị phù sa . Của sông kinh Thầy. Có vòi hoa sen thơm. Trong đầm nước đầy. Có lời bà mẹ hát. Ngọt bùi đắng
Trả lời (1) Điệp ngữ "ước làm" nhắc lại 4 lần để nhấn mạnh thi nhân có rất nhiều ước muốn để cống hiến, dựng xây cho quê hương, đất nước. - Các hình ảnh "Một hạt phù sa', "tiếng chim ca", "tia nắng vàng tươi", "hạt mưa rơi" là những sự vật bé nhỏ trong thiên nhiên nhưng đều có tác dụng với cuộc sống. Phù sa mang đến màu mỡ cho những cánh đồng.
Làm thế nào để đất phù sa cảm thấy như thế nào? Cát luôn có thể được cảm nhận như từng hạt riêng lẻ, nhưng bùn và đất sét nói chung thì không thể. Phù sa khô có cảm giác nhão, còn phù sa ướt trơn hoặc có mùi xà phòng nhưng không dính. Đất sét khô tạo thành cục
1) Điều tiết dòng chảy mùa lũ, do vậy làm giảm dòng chảy mùa lũ, dẫn đến hạn chế sạt lở; 2) Làm giảm phù sa về, dẫn đến ít phù sa lắng đọng ở lòng sông, làm gia tăng độ dốc bờ sông và do vậy làm tăng sạt lở. Ngoài ra, dòng sông ít phù sa (đói phù sa) cũng làm gia tăng xói lở bờ khi dòng chảy không mạnh để tăng hàm lượng phù sa trong nước.
10/05/2013@11h29, 1418 lượt xem, viết bởi: neodaubenlam. Chuyên mục: THEO DẤU CHÂN NGƯỜI LÍNH, ĐI VÀ VIẾT. Ngã ba Đồng Lộc - một địa chỉ đỏ, một dấu tích hào hùng, minh chứng sinh động về chủ nghĩa anh hùng yêu nước, về khí phách, tâm hồn của dân tộc Việt Nam, của lý
Con Rươi Tứ Kỳ được sinh sống và phát triển trong môi trường sạch, không thuốc hóa học, thuốc trừ sâu và nhất là rươi sống nhờ con nước hạ nguồn "sông Thái Bình" có hàm lượng hạt phù sa cao, nhiều chất dinh dưỡng nên rươi tại Tứ Kỳ có chất lượng tốt, hảo
Miền Tây Nam Bộ là vùng đất phù sa màu mỡ, thời tiết thuận hòa với hai mùa mưa nắng, cây trái ngọt lành, cá tôm đầy sông rạch. Niềm tự hào ấy một thời góp phần làm nên thương hiệu "miền sông nước hào sảng" và là một điểm dừng chân lý tưởng cho du khách trong
4vE3zXK. Phần IITheo quan niệm của tôi, lối sống giản dị là biết chấp nhận cuộc sống hiện tại nhưng vẫn có những ước mơ. Ước mơ đó chỉ là những điều mà khả năng của ta có thể làm được. Trong cuộc sống, ta luôn khiêm nhường, hòa đồng với mọi người cả về phong cách và lối sống. Không kiêu ngạo, bon chen, ghen tị hay sống xa hoa, đua đòi những của cải vật chất vô nghĩa. Ta không nghĩ nhiều cho bản thân và luôn sẵn sàng giúp đỡ người khác khi cần quan niệm của một số người khác Đa số lối sống giản dị, mộc mạc thể hiện rỏ nét nhất ở người dân nông thôn. Ở họ quanh năm với tấm áo nâu sồng, chân đất, họ bán mặt cho đất, bán lưng cho trời nhưng vẫn vui vẻ bên điếu cày, bát nước chè xanh khi nghĩ ngơi. Hay đêm về, với mảnh chiếu thô sơ, bạn bè người thân quay quần bên ấm trà bàn chuyện thời tiết, cầu mong mưa thuận gió hòa để mùa màng bội thu. Trong cuộc sống, họ không cầu kỳ xa hoa, không kiêu căng hợm hỉnh mà họ lấy chân chất, hiền hòa, trung thực để đối nhân xử thế, họ giúp đỡ lẫn nhau hoặc thăm viếng nhau khi có người thân quen bị hoạn nạn, ốm đau. Trái lại, ở thành phố, nơi đô thị đông đúc, cuộc sống bon chen, vội vã, thời gian rượt công việc, công việc đuổi theo con người. Họ sống vội sống vàng, đôi khi không kịp thở. Chỉ có một ít người già cả hay những người về nghĩ hưu, cuộc sống của họ tuy giản dị nhưng không thoải mái như không khí trong lành ở miền quê. Họ bị bao bọc bởi những bức tường cao ngất hay ồn ào bụi bặm, hoặc bị đinh tai nhức óc bởi những âm thanh hỗn tạp nơi đô thị. Đa số họ ao ước có một cuộc sống đơn sơ giản dị nơi miền thôn dã tĩnh lặng với bầu không khí trong tóm lại, lối sống giản dị luôn là điều cần có ở mỗi con người, đó là một đức tính tốt đẹp, ko nhất thiết chỉ có người ở nông thôn mới sống giản dị hay người ở thành phố thì ko thể sống giản dị. Lối sống đó là một cách sống ko khoa trương, ko chú trọng quá nhiều ở hình thức bên ngoài. Nói như thế cũng ko có nghĩa là cứ ăn mặc luộm thuộm lôi thôi rồi tự xưng là người sống giản dị được. Giản dị trong mỗi điều kiện, hoàn cảnh lại có những cách biểu hiện khác nhau. Có người sống giản dị chân chính đúng với bản chất của mình và tất nhiên cũng có người sống giản dị một cách giả tạo. Nhưng “bản chất rồi sẽ lộ ra”, nếu giản dị ko phải là đức tính của họ thì họ sẽ ko thể sống mãi với cái vỏ bọc đó được. Lối sống giản dị ko phải là cuộc sống đơn giản, cứ lặp đi lặp lại, nhàm chán như nhiều người đã nghĩ. Trái lại, sống giản dị giúp người ta có thể thoải mái, thư thái về mặt tâm hồn. Bởi lẽ khi ta đã sống đơn giản thì sẽ có nhiều thời gian để suy nghĩ cho nhiều vấn đề khác quan trọng hơn trong cuộc sống. Ngoài ra, ta còn được nhiều người yêu mến, kính trọng. Lối sống giản dị bao gồm nhiều phương diện khác nhau ăn mặc, giao tiếp, sở thích cá nhân, cách cư xử…Giản dị trong cách ăn mặc là không bận những trang phục quá cầu kì hay trở nên khác người khi đi ra đường. Ăn mặc đúng theo thời đại và đơn giản như quần jean, áo thun hay quần tây, áo sơ mi. Trang phục ấy phải luôn hòa hợp với mọi người xung quanh. Giản dị trong cách ăn mặc cũng không có nghĩa là trở nên quá bê tha, cẩu thả và lôi thôi. Khi giao tiếp hay cư xử với người khác, ta luôn dùng từ ngữ dễ hiểu và lời lẽ đầy thiện cảm. Cư xử một cách đúng đắn và chuẩn mực đạo đức. Không nên “trọng phú khinh bần” hay cư xử một cách thô bạo. Khi nói chuyện với người lớn hơn mình như ông bà, cha mẹ, thầy cô thì nên “gọi dạ bảo vâng” cũng như khi nói chuyện với bạn bè, những người đồng trang lứa hay những người nhỏ hơn mình thì nên chọn từ ngữ và cách cư xử thích hợp nhất…Từ xưa ông cha ta cũng đã có nhiều câu ca dao, tục ngữ hay danh ngôn nói về điều này nhưLời nói chẳng mất tiền mua,Lựa lời mà nói cho vừa lòng nói đến lối sống giản dị thì không ai lại không nghĩ tới chủ tịch Hồ Chí Minh. Vì thế ta có thể học tập rất nhiều ở Bác kính yêu lối sống ấy. Nói về sự giản dị của Bác, có lẽ ấn tượng nhất phải kể đến đôi dép cao su và bộ quần áo ka ki. Đôi dép cao su được Bác dùng hơn 20 năm đến khi mòn gót phải lấy một miếng cao su khác vá vào, các quai hay bị tuột phải đóng đinh giữ lại. Còn bộ quần áo ka ki Bác mặc đến khi bạc màu, sờn cổ áo. Những người giúp việc xin Bác thay bộ quần áo mới thì Bác bảo “Bác mặc như thế phù hợp với hoàn cảnh của dân, của nước, không cần phải thay”. Thế đấy, cuộc sống giản dị của Bác tuy rất đơn sơ, mộc mạc nhưng toát lên vẻ thanh thoát, lịch lãm mà không kiểu cách của một con người sống vì dân vì nước suốt cả cuộc đời. Và Bác cũng rất xưng đáng là một tấm gương sáng cho mọi người ngày hôm xưa có câu “Tốt gỗ hơn tốt nước sơn.” dùng để chỉ hình thức bên ngoài không quan trọng bằng bản chất bên trong của con người. Sống khiêm tốn, thật thà, giản dị hay sống xa hoa, bon chen, đua đòi theo vật chất, danh lợi là tùy cách nhận thức của mỗi người. Nhưng sống sao cho đẹp lòng người, sống có ích và không cảm thấy hối tiếc thì thật sự là một điều rất khó. Bởi thế chúng ta hãy chọn cho mình một cách sống tốt nhất bằng cách cùng tạo dựng cho bản thân một “lối sống giản dị” riêng.
thể thơ tự do phương thức biweur đạt chính biểu cảm điệp từ ước nhấn mạnh khao khât ước muốn của tác hỉa được làm hạt phù sa , tiếng chim ca, tia nắng hay hạt mưa rơi thông điệp ước mơ dù có nhỏ bé đến đâu hay vĩ đại cỡ nào hãy dám sống khát khao và chắc chắn mình sẽ làm được Khát vọng là mong muốn làm được, đạt được những điều lớn lao, tốt đẹp trong cuộc sống. Khi con người có khát vọng, nó sẽ là động lực thôi thúc con người ta sống, nỗ lực để đạt đến điều đó. Người sống có khát vọng luôn khao khát làm được những việc hữu ích và lớn lao cho bản thân, cộng đồng và đất nước; trong lòng tràn đầy niềm tin, ước mơ, sống có hoài bão, có lí tưởng. Ai cũng cần phải biết khát vọng ở phía trước bởi nó có vai trò thúc giục con người không ngừng làm việc, hoàn thiện bản thân, vươn tới những gì cao đẹp trong cuộc sống. Người có khát vọng sống mạnh mẽ luôn thành công trong cuộc sống,được mọi người tôn trọng và giúp đỡ. Sống không có khao khát, mong mỏi một điều gì nào lớn lao cuộc sống sẽ thật đơn điệu và nhàm chán, con người ngày càng lười biếng, ỷ lại, thờ ơ với cuộc sống, trở nên tầm thường, thấp kém. Muốn sống có khát vọng, trước hết phải xây dựng cho mình lý tưởng sống cao dẹp, sống có ước mơ,lạc quan và tin tưởng vào bản thân và cuộc sống, không ngừng làm việc để đạt được ước mơ. Tuy nhiên, nên có khát khao lớn chứ không nên ảo tưởng về bản thân hoặc điều mình mơ ước tới. Mong muốn đạt đến cần phải gắn liền với thực tế, phải vừa sức, có khả năng vươn tới được. Sống yêu thương và không ngừng khát vọng sẽ đưa bạn đến với những điều phi thường trong cuộc sống
Đọc hiểu văn bản là một trong số những kĩ năng quan trọng cần được rèn luyện thường xuyên của người học sinh. Để đọc hiểu được văn bản, không chỉ là văn bản được hướng dẫn dưới sự định hướng của giáo viên mà còn là văn bản ngoài sách giáo khoa, người học phải vận dụng tất cả các kiến thức của ba phân môn Văn học, tiếng Việt, làm văn trên nhiều phương diện như Thể loại văn học, thể thơ, các yếu tố thuộc về hình thức, nội dung văn bản; phương thức biểu đạt, phong cách ngôn ngữ, phép liên kết, biện pháp tu từ.. Sau đây là một số bài đọc hiểu về văn bản Xin làm hạt phù sa của nhà thơ Lê Cảnh Nhạc nhằm luyện tập kĩ năng đọc hiểu cho các bạn học sinh Đọc bài thơ sau Xin dâng lời của nắng Mang lửa ấm mặt trời Xin dâng lời biển cả Mang bao dung tình người. Chiến tranh đã qua rồi Bão tố đã qua rồi Vết thương còn rỉ máu Mầm non không đâm chồi. Ánh mắt cho em thơ Thắp lửa từ ngàn nắng Nụ cười cho em thơ Kết tình yêu biển rộng. Bắt đầu từ giọt nắng Góp nên lửa mặt trời Bắt đầu từ hạt muối Kết vị mặn biển đời. Ước làm một hạt phù sa Ước làm một tiếng chim ca xanh trời Ước làm tia nắng vàng tươi Ước làm một hạt mưa rơi ấm chồi. Xin làm hạt phù sa – Lê Cảnh Nhạc Thực hiện các yêu cầu Câu 1/ Xác định phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong bài thơ. Câu 2/ Theo anh/chị, các từ "xin" "ước" lặp lại nhiều lần trong bài thơ có ý nghĩa như thế nào? Câu 3/ Những hình ảnh hạt phù sa, tiếng chim, giọt nắng, hạt mưa, hạt muối tượng trưng cho điều gì? Câu 4/ Bài thơ thể hiện khát vọng sống như thế nào của nhà thơ? Câu 5/ Hãy viết đoạn văn khoảng 200 chữ trình bày suy nghĩ của anh/chị về vai trò của sự cống hiến. Định hướng làm bài Câu 1/ Phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong bài thơ biểu cảm. Câu 2/ Các từ "xin" "ước" lặp lại nhiều lần trong bài thơ "xin" – 2 lần; "ước" – 4 lần phép điệp ngữ. Có ý nghĩa Nhấn mạnh khát khao được cống hiến những điều đẹp đẽ cho đất nước của nhà thơ Khát vọng ấy xuất phát từ tình yêu thiết tha, sâu nặng của nhà thơ đối với đất nước. Câu 3/ Những hình ảnh hạt phù sa, tiếng chim, giọt nắng, hạt mưa, hạt muối tượng trưng cho những cống hiến tuy nhỏ bé nhưng hữu ích. Hạt phù sa bồi đắp cho đồng bãi đất đai; tiếng chim mang giai điệu cho đời; tia nắng, hạt mưa mang sự sống cho vạn vật... Mỗi sự vật dù nhỏ bé nhưng cần thiết. Qua đó nhấn mạnh sự cống hiến không nhất thiết phải là những gì lớn lao, đôi khi chỉ là những điều nhỏ bé cũng vô cùng đáng quý. Câu 4/ Bài thơ thể hiện khát vọng sống của nhà thơ đó là khát vọng cống hiến những gì đẹp nhất, hữu ích nhất cho đời, cho đất nước. Đây là khát vọng cao đẹp của nhà thơ, thể hiện lòng yêu đời, tình yêu đất nước mãnh liệt. Câu 5/ Đoạn văn 200 chữ vai trò của sự cống hiến. Nếu là con chim, là chiếc lá Thì chim phải hót, chiếc lá phải xanh Lẽ nào vay mà không trả Sống là cho, đâu chỉ nhận riêng mình. Những vần thơ của Tố Hữu là lời nhắn nhủ tha thiết đến mỗi người về lẽ sống phải biết cống hiến, biết cho đi. Sống cống hiến là dâng hiến trí tuệ, tài năng, công sức.. cho một điều gì đó vì mục tiêu chung mà không đòi hỏi nhận lại. Sống cống hiến là cần thiết bởi mỗi cá nhân không phải là một cá thể đơn độc, không phải là ốc đảo giữa đại dương. Con người là một mắt xích của xã hội, nên không phải chỉ biết sống cho mình mà phải biết cống hiến cho cộng đồng, vì cộng đồng để sợi dây gắn kết với mọi người thêm bền chặt và để tạo nên những giá trị tốt đẹp cho cuộc sống. Sống cống hiến là cần thiết bởi đó là lối sống đẹp, giúp con người hoàn thiện nhân cách, khẳng định được giá trị bản thân. Khi ta biết cống hiến cho cuộc đời những điều tốt đẹp, ta cũng nhận về thật nhiều. Ta nhận về hạnh phúc, sự an yên. Ta nhận về niềm tin yêu, quý mến của mọi người. Ta nhận về sự kết nối bền chặt với đoàn thể, xã hội. Sống cống hiến là cần thiết bởi lối sống ấy có khả năng lan tỏa những điều tốt đẹp, nhân lên trong cuộc sống những hành vi đẹp. Mỗi người đều có tinh thần cống hiến sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển của xã hội, của đất nước. Thậm chí, những cống hiến lớn lao còn tác động đến cả nhân loại. Chẳng phải những cống hiến của Thomas Edison, Albert Einstein, Chales Darwin.. đã có tầm ảnh hưởng vĩ đại đến nhân loại đó sao? Cuộc sống sẽ trì trệ, đáng buồn đến thế nào nếu con người không có tinh thần cống hiến mà chỉ biết sống cho mình? Để mang đến sắc màu, thanh âm cuộc sống, đến chiếc lá còn tận xanh đời lá, con chim còn tận hót đời chim, vậy cớ gì con người không biết cống hiến cho đời những điều đẹp đẽ? Nếu chưa thể cống hiến những gì lớn lao, hãy cống hiến cho đời những điều bình thường, giản dị. Bởi mọi sự cống hiến, dù nhỏ bé cũng đều mang lại ý nghĩa nhất định. Và bởi, "thước đo của cuộc đời không phải thời gian, mà là cống hiến" - Peter Marshall. Đề số 2 bên dưới Chỉnh sửa cuối 6 Tháng sáu 2022 Đọc bài thơ sau Xin dâng lời của nắng Mang lửa ấm mặt trời Xin dâng lời biển cả Mang bao dung tình người. Chiến tranh đã qua rồi Bão tố đã qua rồi Vết thương còn rỉ máu Mầm non không đâm chồi. Ánh mắt cho em thơ Thắp lửa từ ngàn nắng Nụ cười cho em thơ Kết tình yêu biển rộng. Bắt đầu từ giọt nắng Góp nên lửa mặt trời Bắt đầu từ hạt muối Kết vị mặn biển đời. Ước làm một hạt phù sa Ước làm một tiếng chim ca xanh trời Ước làm tia nắng vàng tươi Ước làm một hạt mưa rơi ấm chồi. Xin làm hạt phù sa – Lê Cảnh Nhạc Thực hiện các yêu cầu Câu 1/ Xác định thể thơ được sử dụng trong 4 khổ đầu và thể thơ được sử dụng trong khổ cuối. Câu 2/ Trong bài thơ, nhà thơ ước mình trở thành những sự vật gì? Đó là những sự vật như thế nào? Câu 3/ Nêu hiệu quả của phép điệp được sử dụng trong khổ thơ cuối. Câu 4/ Bài thơ "Xin làm hạt phù sa" khiến anh/chị liên tưởng đến bài thơ nào đã học? Nét tương đồng về nội dung tư tưởng trong hai bài thơ là gì? Câu 5/ Hãy viết đoạn văn khoảng 200 chữ trình bày suy nghĩ của anh/chị về sự cần thiết phải biết sống cống hiến. Định hướng làm bài Câu 1/ Thể thơ được sử dụng trong 4 khổ đầu Ngũ ngôn Thể thơ được sử dụng trong khổ cuối Lục bát Câu 2/ Trong bài thơ, nhà thơ ước mình trở thành hạt phù sa, tiếng chim, giọt nắng, hạt mưa, hạt muối Đó là những sự vật nhỏ bé nhưng hữu ích, tượng trưng cho những điều tốt đẹp nhỏ bé trong cuộc đời. Từ đó, nhà thơ muốn gửi gắm ước nguyện cống hiến đóng góp điều tốt đẹp cho cuộc đời chung dù chỉ là chút ít. Đây chính là khát vọng sống cống hiến cao đẹp của nhà thơ. Câu 3/ Hiệu quả của phép điệp được sử dụng trong khổ thơ cuối. - Phép điệp ngữ "Ước làm" được lặp lại 4 lần trong khổ thơ cuối. - Tác dụng Nhấn mạnh ước muốn của nhà thơ được hóa thân những gì nhỏ bé nhất, để đóng góp cho vẻ đẹp của cuộc đời chung. Ước muốn ấy thể hiện vẻ dẹp tâm hồn của một con người yêu đời, yêu đất nước.. Tăng nhạc điệu cho lời thơ, khiến lời thơ trở thành lời thúc giục tự bên trong Mạnh mẽ, quyết liệt. Câu 4/ Bài thơ "Xin làm hạt phù sa" khiến em liên tưởng đến bài thơ Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải. Trong bài thơ này, Thanh Hải cũng ước mình được làm con chim hót, làm một nhành hoa, một nốt trầm trong bản hòa ca – những sự vật nhỏ bé, hữu ích. Nét tương đồng về nội dung tư tưởng trong hai bài thơ là thể hiện khát khao nhân văn, cao đẹp của những con người yêu cuộc đời, yêu đất nước Khát khao cống hiến những gì đẹp đẽ cho cuộc đời chung, dù chỉ là nhỏ bé để hòa mình vào cuộc sống chung của mọi người, của đất nước. Câu 5/ Đoạn văn 200 chữ Sự cần thiết phải biết sống cống hiến. Một xã hội phát triển, văn minh không thể thiếu những con người biết sống cống hiến. Họ như những bông hoa làm giàu, làm đẹp cho vườn hoa cuộc đời. Sống cống hiến là phẩm chất cần thiết và quan trọng mà mỗi người cần có. Bởi nó mang lại nhiều điều tốt đẹp cho mỗi người và cho mọi người. Trước hết, sống cống hiến giúp bản thân biết bước ra khỏi cái tôi ích kỉ, hạn hẹp để hòa mình vào dòng chảy chung của cuộc đời, giúp mỗi người biết sẻ chia, cảm thông cho người khác. Sống cống hiến, dù là cống hiến nhỏ bé cũng giúp chúng ta nhận được sự yêu quý, thiện cảm của những người xung quanh. Khi biết cống hiến, mỗi chúng ta sẽ nhận thấy tâm hồn thanh thản và hạnh phúc, vì sẽ nhận lại nhiều niềm vui từ sự sẻ chia mang lại. Sống cống hiến giúp bản thân mình trở nên có ích hơn, có giá trị hơn vì đã góp một phần công sức vào sự phát triển chung của cộng đồng. Hơn nữa, sống cống hiến góp phần làm cho đất nước phát triển, cuộc sống tốt đẹp, xã hội văn minh hơn. Những cống hiến lớn lao còn thúc đẩy sự phát triển của nhân loại. Những phát minh, những công trình khoa học - sản phẩm của cống hiến đã và đang khiến cho cuộc sống loài người trở nên tiện nghi, văn minh.. Như vậy, sống cống hiến mang lại nhiều ý nghĩa tốt đẹp. Những người chỉ biết cô lập mình trong lợi ích cá nhân không bao giờ có được trải nghiệm hạnh phúc lớn lao từ sự cống hiến mang lại. Vì vậy, mỗi người hãy biết cống hiến, biết trao đi để nhận về.. Hãy biến mình thành hạt phù sa để bồi đắp cho dòng sông cuộc đời chảy mãi những yêu thương Ước làm một hạt phù sa Ước làm một tiếng chim ca xanh trời Ước làm tia nắng vàng tươi Ước làm một hạt mưa rơi ấm chồi. văn bản đọc hiểu
Có thể bạn quan tâmTháng 5 năm 2023 có bao nhiêu ngày?Có bao nhiêu số tự nhiên có 5 chữ số, các chữ số khác 0 và đôi một khác nhauĐóng góp Nghỉ phép gia đình có hưởng lương của NY cho năm 2023 là bao nhiêu?Phạm vi của Toyota Highlander Hybrid 2023 là gì?Điều gì xuất hiện vào ngày 24 tháng 3 năm 2023? PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠOTHANH BAĐỀ CHÍNH THỨCĐỀ KHẢO SÁT ĐỘI TUYỂN HSG CẤP TỈNHNăm học 2016 - 2017Môn Ngữ văn 9Thời gian làm bài 150 phút không kể thời gian giaođềCâu 1 8,0 điểmĐọc đoạn thơ sau và trả lời các câu hỏi... “Ước làm một hạt phù saƯớc làm một tiếng chim ca xanh trờiƯớc làm tia nắng vàng tươiƯớc làm một hạt mưa rơi, đâm chồi”.Lê Cảnh Nhạc- Xin làm hạt phù sa- 2005.1. Chỉ ra phương thức biểu đạt chính của đoạn thơ trên?2. Tìm các biện pháp tu từ được sử dụng trong đoạn thơ ?3. Tìm điểm chung trong cảm hứng sáng tác của các tác giả Lê CảnhNhạc trong bài thơ Xin làm hạt phù sa, Thanh Hải trong bài Mùa xuân nhonhỏ và Viễn Phương trong bài Viếng lăng Bác?4. Viết đoạn văn tổng – phân – hợp cảm nhận về hiệu quả nghệthuật của biện pháp tu từ và các hình ảnh được sử dụng trong đoạn thơ ?Câu 2 12,0 điểmHình ảnh thế hệ trẻ Việt Nam trong sự nghiệp chống Mĩ cứu nước trongcác tác phẩm Lặng lẽ Sa Pa Nguyễn Thành Long, Bài thơ về tiểu đội xe khôngkính Phạm Tiến Duật và Những ngôi sao xa xôi Lê Minh KhuêHếtHọ tên thí sinh ……………………………… Số báo danh………………………Chú ý - Đề thi gồm 01 trang. Thí sinh không được sử dụng bất cứ tài liệu gì- Cán bộ coi thi không được giải thích gì DẪN CHẤM THI KHẢO SÁT ĐỘI TUYỂN HSG CẤP TỈNHNĂM HỌC 2016- 2017Môn Ngữ văn – Lớp 9Câu 1 8,0 điểmYêu cầu chung- Kiểm tra năng lực viết bài nghị luận về một vấn đề xã hội, đòi hỏi thísinh phải huy động những hiểu biết về đời sống và kĩ năng tạo lập văn bản đểlàm Thí sinh có thể trình bày theo nhiều cách khác nhau nhưng phải có lí lẽ và căncứ xác đáng, có thái độ chân thành nghiêm túc, phù hợp với chuẩn mực đạo đức cầu cụ thể1. Chỉ ra được phương thức biểu đạt chính của đoạn thơ biểu cảm 0,5 điểm2. Tìm các biện pháp tu từ được sử dụng trong đoạn thơ 0,5 điểm+ Điệp ngữ “ước làm” nhắc lại 4 lần, điệp ngữ “một” nhắc lại 3 lần nhấnmạnh thi nhân có nhiều ước muốn để cống hiến, dựng xây cho quê hương, Tìm điểm chung trong cảm hứng sáng tác của các tác giả Lê Cảnh Nhạctrong bài thơ Xin làm hạt phù sa, Thanh Hải trong bài Mùa xuân nho nhỏ vàViễn Phương trong bài Viếng lăng Bác?3,0 điểmLê Cảnh Nhạc, Thanh Hải và Viễn Phương đều có điểm giống nhau trongcảm hứng sáng tác. Trước cuộc sống sôi động, trước cảnh mùa xuân đất nước,trước lãnh tụ vĩ đại, họ đều có những ước muốn làm các sự vật nhỏ bé, khiêmnhường để thể hiện tình yêu với quê hương, đất nước bằng hành động cống hiến+ Thanh Hải ước muốn làm tiếng chim, bông hoa, nốt nhạc, “Mùa xuânnho nhỏ” để làm đẹp mùa xuân dân tộc.+ Viễn Phương ước muốn làm tiếng chim, bông hoa, cây tre trung hiếu đểngày đêm được ở bên Bác.+ Lê Cảnh Nhạc ước muốn làm hạt phù sa, tiếng chim, tia nắng, hạt mưađể sống có ích, sống làm đẹp cho cuộc là tình cảm, lẽ sống cao đẹp của con người Việt Nam trong thời đại Viết đoạn văn tổng – phân – hợp phân tích hiệu quả nghệ thuật của biện pháptu từ và các hình ảnh được sử dụng trong đoạn thơ ?4,0 điểm+ Hình thức viết đúng đoạn tổng – phân – hợp+ Nội dung - Điệp ngữ “ước làm” nhắc lại 4 lần, điệp ngữ “một” lặplại 3 lần nhấn mạnh những ước muốn chân thành, khiêm nhường được cốnghiến, làm đẹp cho quê hương, đất Các hình ảnh “Một hạt phù sa’, “tiếng chim ca”, “tia nắngvàng tươi”, “hạt mưa rơi” là những sự vật bé nhỏ trong thiên nhiên nhưng đềucó tác dụng với cuộc sống. Phù sa mang đến màu mỡ cho những cánh chim hót làm “xanh trời” hoà bình. “Tia nắng vàng tươi”, “hạt mưa rơi”khiến cho hạt đâm chồi, nảy lộc, sự sống hình thành và phát triển. Các hình ảnhgiản dị, khiêm nhường thể hiện ước nguyện sống, cống hiến cao đẹp của 2 12,0 điểmYêu cầu chung- Kiểm tra năng lực viết bài nghị luận văn học, đòi hỏi thí sinh phải huyđộng kiến thức về tác phẩm văn học, kiến thức văn học sử, kĩ năng tạo lập vănbản để làm Thí sinh có thể cảm nhận và trình bày theo những cách khác nhau, nhưngphải rõ hệ thống luận điểm, có lý lẽ, căn cứ xác cầu cụ thể1. Khái quát chung 2,0 điểm- Các tác phẩm Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật,Những ngôi sao xa xôi của Lê Minh Khuê, Lặng lẽ Sa Pa của Nguyễn ThànhLong ra đời trong thời điểm cuộc kháng chiến chống Mĩ của dân tộc đang diễnra ác liệt. Mặc dù vậy, các tác giả không đi sâu miêu tả những đau thương mấtmát, những vất vả khó khăn của dân tộc mà tập trung khám phá, ca ngợi vẻ đẹpcủa con người Việt Nam trong chiến đấu cũng như trong lao Các tác phẩm làm hiện lên hình ảnh những con người rất đỗi bình dị,tâm hồn trong sáng, có lòng yêu nước thiết tha, không quản ngại khó khăn, giankhổ, hiểm nguy, ngày đêm chiến đấu với kẻ thù, hăng say lao động để xây dựngvà bảo vệ quê hương, đất nước. Họ đã tạo nên một tập thể anh hùng trong hoàncảnh chiến tranh khốc liệt, trong đó mỗi nhân vật đều có vẻ đẹp riêng hòa vào vẻđẹp chung của dân Hình ảnh thế hệ trẻ Việt Nam trong sự nghiệp chống Mĩ cứu nước.8,0 điểma. Hình ảnh thế hệ trẻ thời chống Mĩ trong chiến đấu 4,0 điểm- Họ có lý tưởng sống cao đẹp, có tình yêu nước nồng nàn, sẵn sàng chiếnđấu, hi sinh cho sự nghiệp giải phóng dân chiến sĩ lái xe, những nữ thanh niên xung phong làm nên những kỳtích phi thường là nhờ có tình yêu Tổ quốc- Họ luôn hiên ngang, dũng cảm, sẵn sàng đối mặt với khó khăn, giankhổ+ Trên những chiếc xe không kính, những người lính lái xe có tư thế ungdung, bình tĩnh. Họ chấp nhận thử thách, bất chấp mọi hiểm nguy.+ Những thanh niên xung phong trên tuyến đường Trường Sơn hàng ngàyphải phơi mình trên trọng điểm sau những trận bom, đo khối lượng đất đá lấpvào hố bom, đếm bom chưa nổ và phá bom. Công việc nguy hiểm, cái chết luônrình rập họ từng phút, từng giờ nhưng họ vẫn luôn chủ động, bình tĩnh trong mọitình huống, gan dạ, dũng cảm, không quản ngại khó khăn nguy Họ là những con người trẻ trung, lãng mạn, nhiều khát vọng+ Những cô gái thanh niên xung phong là những người yêu đời, dễ rungcảm, giàu ước mơ. Phương Định, Nho, chị Thao là những cô gái hồn nhiên,nhạy cảm, lãng mạn và mơ mộng,....+ Những người lính lái xe rất trẻ trung, sôi nổi, lạc quan Họ có tình đồng chí, đồng đội gắn bó thân thiết+ Hoàn cảnh chiến tranh đã gắn kết những người lính lái xe trong tìnhthân đồng đội như anh em ruột thịt, cùng sẻ chia với nhau trong cuộc sống thiếuthốn, hiểm nguy.+ Trong khói lửa đạn bom, những cô thanh niên xung phong cũng gắn bó,yêu thương, chia sẻ, giúp đỡ nhau bằng tình cảm chân thành, thắm thiết củanhững người đồng Hình ảnh thế hệ trẻ thời chống Mĩ trong lao động4,0 điểm* Hình ảnh thế hệ trẻ thời chống Mĩ trong lao động được tập trung thểhiện trong tác phẩm Lặng lẽ Sa Pa của Nguyễn Thành Long. Tác phẩm như mộtbài ca về vẻ đẹp trong cách sống và suy nghĩ của những con người lao độngtưởng chừng như bình thường mà cao cả, luôn quan tâm và có trách nhiệm đốivới quê hương, đất nước. Họ lặng lẽ, âm thầm, ngày đêm cống hiến hết mìnhcho đất Họ là những người sống có lí tưởng và tràn đầy lạc quan. Anh thanhniên, anh cán bộ nghiên cứu khoa học,… đã thực sự tìm thấy niềm hạnh phúctrong công việc lao động đầy gian khổ. Họ làm việc và lo nghĩ cho đất nước. Lítưởng sống của họ là vì nhân dân, vì đất Họ là những người nhiệt tình và hăng say lao động. Trong điều kiệnkhắc nghiệt, những người lao động ấy vẫn mang hết sức lực của mình để cốnghiến cho Tổ Họ có lối sống giản dị, khiêm tốn, giàu tình cảm anh thanh niên làngười có tâm hồn cởi mở, chân thành, quý trọng tình cảm, khát khao được gặpgỡ, trò chuyện với mọi người; biết tổ chức, sắp xếp cuộc sống một cách chủđộng, ngăn nắp; khiêm tốn, trân trọng sự hi sinh thầm lặng của những ngườixung quanh... Cuộc gặp gỡ đầy thú vị giữa anh thanh niên, người họa sĩ, cô kỹsư và bác lái xe bộc lộ tình cảm đáng trân trọng của Đánh giá, khái quát.2,0 điểm- Với cảm hứng ngợi ca, hình ảnh những người lính, những nữ thanh niênxung phong, những người lao động thời kỳ chống Mĩ hiện lên chân thực, sinhđộng, cao đẹp; gieo vào lòng người đọc niềm trân trọng, cảm phục xen lẫn Ba tác phẩm giúp bạn đọc hiểu hơn về lịch sử hào hùng của dân tộc, vềthế hệ cha anh với lí tưởng sống cao đẹp, sẵn sàng hi sinh xương máu, hi sinhtuổi thanh xuân để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Thế hệ trẻ hôm nay cần kế thừavà phát huy chủ nghĩa anh hùng cách mạng của thế hệ cha anh đi trước trong sựnghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc* Lưu ý- Trên đây chỉ là những định hướng, giám khảo cần linh hoạt, tránh đếm ýcho điểm. Việc cho điểm từng ý cần thống nhất Khuyến khích những bài viết có sự sáng Điểm toàn bài là tổng điểm các câu đã chấm cho lẻ đến 0, GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠOĐỀ KHẢO SÁT ĐỘI TUYỂN HSG CẤP TỈNHTHANH BAĐỀ CHÍNH THỨCNăm học 2016 - 2017Môn Ngữ văn 9Thời gian làm bài 150 phút không kể thời gian giao đềCâu 1 8,0 điểmSuy nghĩ của em về câu nói “Cuộc sống cũng cần những giọt nước mắt”Câu 2 12,0 điểmGiáo sư Lê Đình Kỵ cho rằng “Tác phẩm nghệ thuật đạt tới cái đẹp theo nghĩamang được sự thật sâu xa của đời sống bên ngoài, đồng thời mang được sự thật tâm tình củacon người”Em hãy làm rõ truyện ngắn Chiếc lược ngà là tác phẩm đã “đạt tới cái đẹptheo nghĩa mang được sự thật sâu xa của đời sống bên ngoài, đồng thời mang được sự thậttâm tình của con người”.HếtHọ tên thí sinh ……………………………… Số báo danh………………………Chú ý - Đề thi gồm 01 trang. Thí sinh không được sử dụng bất cứ tài liệu gì- Cán bộ coi thi không được giải thích gì DẪN CHẤM THI KHẢO SÁT ĐỘI TUYỂN HSG CẤP TỈNHNĂM HỌC 2016- 2017Môn Ngữ văn – Lớp 9Câu 1 8,0 điểmYêu cầu chung- Kiểm tra năng lực viết bài nghị luận về một vấn đề xã hội, đòi hỏi thísinh phải huy động những hiểu biết về đời sống và kĩ năng tạo lập văn bản đểlàm Thí sinh có thể trình bày theo nhiều cách khác nhau nhưng phải có lí lẽ và căncứ xác đáng, có thái độ chân thành nghiêm túc, phù hợp với chuẩn mực đạo đức cầu cụ thểThí sinh có thể trình bày theo nhiều cách khác nhau nhưng phải đảm bảonhững ý cơ bản sau1. Giải thích ý kiến 2,0 điểm- Giọt nước mắt là một trong những biểu hiện của trạng thái cảm xúc, thểhiện sự xúc động cao độ, mãnh liệt của con người như buồn, thất vọng, đau khổ,tuyệt vọng, hoặc đôi khi nước mắt cũng là biểu hiện của trạng thái vui mừng,cảm động,…- Cuộc sống cũng cần những giọt nước mắt khẳng định vai trò, sự cần thiếtcủa cảm xúc, tình cảm trong cuộc Bàn luận 4,0 điểm Vì sao “nước mắt” lại cần thiết trong cuộc sống?- Nước mắt là một hình thức cần thiết để giải tỏa nỗi niềm, giúp con ngườivượt lên trong cuộc sống Nước mắt là biểu hiện của tâm trạng buồn đau khi conngười rơi vào hoàn cảnh éo le, nghiệt ngã. Nó giúp con người vơi đi những buồnđau để lấy lại thăng bằng trong cuộc sống. Nếu biết gạt đi những giọt nước mắt,vượt qua những buồn đau, con người sẽ khẳng định được ý chí, nghị lực, bản lĩnhcủa Nước mắt còn là biểu hiện của sự xúc động chân thành trước niềm vui,hạnh phúc và sự may mắn mà ta có được. Giọt nước mắt ấy cho ta niềm tin, tìnhyêu vào cuộc Nước mắt còn là biểu hiện sự day dứt, trăn trở, hối hận, ăn năn, có tác dụngthức tỉnh, thanh lọc tâm hồn, giúp ta dũng cảm đối diện với những sai lầm củachính mình để ngày càng hoàn thiện bản Nước mắt là biểu hiện của lòng trắc ẩn, thể hiện sự xúc động chân thành,niềm cảm thông, chia sẻ với người khác, làm cho cuộc sống trở nên nhân ái và tốtđẹp hơn.=> Cuộc sống cũng cần những giọt nước mắt bởi đó không chỉ là biểu hiệnthuộc về những xúc cảm có tính bản năng của con người mà còn là dấu hiệu củanhân tính, cho thấy vẻ đẹp tâm hồn phong phú, giàu xúc cảm, giàu tình yêuthương…Lưu ý Học sinh cần kết hợp được lí lẽ với các dẫn chứng tiêu biểu để làm sángtỏvấn đềMở rộng Cuộc sống không chỉ có nước mắt mà còn có nụ cười. Hãyluôn mỉm cười bởi nụ cười của bạn chính là lý do để người khác mỉm Bài học nhận thức và hành động 2,0 điểm- Cần trân trọng và bồi đắp những xúc cảm chân thành, mãnh liệt trong cuộcsống để tâm hồn mỗi người không trở nên khô cằn, vô cảm, chai sạn trong nhịpsống hiện Nước mắt cần đi liền với lí trí sáng suốt để lòng trắc ẩn của chúng ta khôngbị lợi dụng, để những xúc cảm trong nội tâm luôn hướng đến những tình cảm nhânvăn .- Con người không chỉ biết rơi nước mắt mà còn cần phải hành động để giúpbản thân và người khác vượt qua những khổ đau và những thử thách trong 2 12,0 điểm* Yêu cầu chung- Kiểm tra năng lực viết bài NLVH đòi hỏi thí sinh huy động kiến thức về líluận văn học, khả năng cảm thụ tác phẩm, kỹ năng tạo lập văn bản để làm Thí sinh có thể cảm nhận và trình bày theo những cách khác nhau nhưngphải rõ hệ thống luận điểm, có lý lẽ, căn cứ xác đáng.* Yêu cầu cụ thể thích ý kiến 2,0 điểm- Giải thích từ ngữ-“Tác phẩm nghệ thuật đạt tới cái đẹp theo nghĩa mang được sự thật sâuxa của đời sống bên ngoài Tác phẩm nghệ thuật nói chung, văn học nói riêngphải phản ánh được chân thực chiều sâu của hiện thực đời Tác phẩm nghệ thuật đạt tới cái đẹp theo nghĩa mang sự thật tâm tìnhcủa con người Tác phẩm văn học phải phản ảnh được chân thực thế giới tâmhồn, tình cảm của con người, thể hiện được những nỗi niềm cảm xúc, những tâmtư tình cảm của con Ý kiến khẳng định Tác phẩm nghệ thuật đạt tới cái đẹp là những tácphẩm phàn ảnh được một cách chân thực, sâu sắc hiện thực của đời sống kháchquan đồng thời thể hiện chân thực thế giới tâm hồn và tình cảm của con kiến đúng, là tiêu chí quan trọng để đánh giá tác phẩm văn học có giá Phân tích, chứng minh qua tác phẩm Chiếc lược ngà.8,0điểmKhẳng định Truyện ngắn Chiếc lược ngà là một tác phẩm nghệ thuật đạt tớicái đẹpLuận điểm 1 Truyện ngắn Chiếc lược ngà là “tác phẩm nghệ thuậtmang được sự thật sâu xa của đời sống bên ngoài” Phản ánh chân thực hiệnthực cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm và những đau thương mất mátđằng sau cuộc chiến.3,0 điểm+ Hiện thực chiến tranh vô cùng khắc nghiệt hoàn cảnh ngặt nghèo củachiến tranh với những đau thương, gian khổ, những mất mát hy sinh....+ Những nỗi đau mà chiến tranh đã gây ra cho cuộc sống con người vợchồng, cha con phải sống trong cảnh chia lìa, gặp nhau con không nhận ra cha,đến lúc nhận ra thì cũng là phút giây từ biệt...Luận điểm 2 Truyện ngắn Chiếc lược ngà là “tác phẩm nghệ thuậtmang sự thật tâm tình của con người” Thể hiện chân thực và xúc động vẻ đẹpcủa tình cảm gia đình, tình đồng chí đồng đội trong những năm khánh chiếnchống Mỹ gian khổ, ác liệt6,0 điểm+ Tác phẩm đã thể hiện một cách cảm động tình phụ tử thiêng liêng conyêu cha bằng một tình cảm đặc biệt sâu sắc, chân thật nhất định không nhận chacũng chỉ vì tình yêu cha, mãnh liệt bộc lộ cảm xúc khi nhận ra cha...; cha yêucon bằng một tình yêu bị dồn nén, kìm chặt da diết nhớ con, đau đớn khi conkhông nhận ra mình, hạnh phúc vỡ òa khi được con gọi ba, dồn hết tình yêuthương vào chiếc lược ngà và trao lại trong phút giây sinh tử....+ Tác phẩm đã thể hiện tình đồng chí đồng đội gắn bó ông Sáu và bác Bađã cùng nhau tham gia hai cuộc kháng chiến nên gắn bó keo sơn, cùng nhauvượt qua hoàn cảnh ác liệt nơi chiến trường, cùng nhau chiến đấu để giành độclập, tự do cho đất nước, chung lí tưởng; chứng kiến và thấu hiểu cảnh ngộ củanhau, sẻ chia với nhau,dành cho nhau niềm tin tưởng sâu sắc…+ Tác phẩm cũng bộc lộ rõ nét sự đồng cảm sẻ chia, sự xót xa, đau đớn;tấm lòng yêu thương trân trọng của nhà văn với con người và tình người qua lờivăn miêu tả đầy xúc động, khả năng phân tích tâm lí nhân vật tinh tế sâu sắc....3 Đánh giá 1,0 điểm Ý kiến của giáo sư Lê Đình Kỵ là ý kiến đúng, sâusắc+ Ý kiến đã nêu lên tiêu chí đánh giá một tác phẩm đạt tới cái đẹp, có ýnghĩa to lớn trong việc định hướng sáng tác cho người nghệ sĩ tác phẩm nghệthuật cần đạt tới cái đẹp.+ Giúp ta thấy được tác động của một tác phẩm nghệ thuật đạt đến cái đẹpđến độc giả đem đến cho người đọc nhận thức phong phú về đời sống; bồidưỡng cho tâm hồn con người những tư tưởng, tình cảm, lối sống cao đẹp.+ Đồng thời định hướng cho người tiếp nhận cảm và hiểu được cái đẹpcủa tác phẩm nghệ thuật.* Lưu ý- Trên đây chỉ là những định hướng, giám khảo cần linh hoạt, tránh đếm ýcho điểm. Việc cho điểm từng ý cần thống nhất Khuyến khích những bài viết có sự sáng Điểm toàn bài là tổng điểm các câu đã chấm cho lẻ đến 0, nghĩa nhân văn sâu sắc trong truyện ngắn Chiếc lược ngàNhà văn Nguyễn Quang Sáng, còn có bút danh là Nguyễn Sáng. Ông sinh năm 1932 t ại xã M ỹLuông nay là thị trấn Mỹ Luông, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang. Trong thời kỳ kháng chi ếnchống Pháp, ông gia nhập quân đội và hoạt động ở chiến trường miền Nam. Sau năm 1954, ôngđược tập kết ra miền Bắc, bắt đầu sự nghiệp viết văn kể từ đó. Đến những năm kháng chiếnchống Mĩ, ông quay lại miền Nam, cùng tham gia cuộc kháng chiến và tiếp tục vi ết Quang Sáng viết nhiều nhưng tác phẩm của ông hầu hết chỉ vi ết về con người và cuộcsống ở Nam bộ với những nét đặc trưng riêng biệt. Những tác phẩm viết về đề tài chi ến tranhcủa ông không giống những sáng tác của các nhà văn cùng thời. Vi ết về cuộc chiến, nguyễnQuang Sáng không tái hiện hiện thực khói lửa mà chủ yếu phản ánh những đau th ương mất mátđằng sau cuộc chiến. Truyện ngắn “Chiếc lược ngà” được Nguyễn Quang Sáng vi ết năm 1966tại chiến trường Nam Bộ là một trong những sáng tác mang nét đặc trưng như qua cảnh ngộ éo le của cha con ông Sáu, truyện ngắn đã gợi cho người đọc biết bao suyngẫm. Cuộc chiến tranh đang diễn ra, những đau thương mất mát trên chi ến trường có thể nhìnthấy được, thống kê được nhưng nỗi đau của những người mẹ mất con, người vợ mất chồng,những đứa con không biết mặt cha thì chưa phải ai cũng đã nhận ra. Cái mất mát đằng sau cuộcchiến không chỉ diễn ra tại thời điểm đó, nó còn hiện hữu, dai dẳng mãi sau đau thương mất mát đó đã được nhà văn thể hiện qua hai tình huống đầy éo huống thứ nhất Hai cha con gặp nhau sau tám năm xa cách, bé Thu không nh ận cha đếnlúc em nhận ra và bộc lộ tình cảm thắm thiết thì anh Sáu phải ra huống thứ hai Ở khu căn cứ, anh Sáu dồn hết tình yêu thương và mong nh ớ con vào vi ệclàm cây lược ngà để tặng con nhưng anh đã hi sinh mà chưa kịp trao cây lược cho con tình huống thứ nhất, người đọc, nếu để ý kĩ, sẽ thấy được hậu quả của chiến tranh đã len lỏiđến nơi hậu phương như thế lại con sau nhiều năm xa cách với bao nỗi nhớ thương nên anh Sáu không kìm được nỗi vuimừng trong phút đầu nhìn thấy đứa con, xuồng chưa cập bến anh đã nhún chân nhảy thót lên r ồikêu to Thu con, nghe gọi con bé giật mình, tròn mắt nhìn, nó ngơ gác, lạ lùng,m ặt nó tái đi rồi vụtchạy hành động này thể hiện thái độ ngạc nhiên, sợ hãy của Thu bởi lẽ với em anh Sáu hoàntoàn là người xa lạ, hơn thế lúc này vết thẹo dài bên má của anh đang đỏ ửng, giần giật trông rấtdễ sợ, nên phản ứng đầu tiên của Thu gọi mẹ để mẹ che ngày nghỉ phép, anh Sáu ở nhà không đi đâu cả, chỉ quanh quẩn bên con, anh tìm m ọicách gần giũ, vỗ về con. Nhưng anh càng gần gũi, vỗ về con bao nhiêu thì đứa con lại càng tỏ ralạnh nhạt, xa cách,khi anh khao khát con gọi một tiếng ba thì con lại nói tr ổng hay trong tìnhhuống người lớn buộc nó gọi tiếng ba khi nó trông nồi cơm sôi sắp nhão, nó cũng nhất địnhkhông chịu gọi ba để nhờ chắt nước giùm, con bé thông minh tự thoát kh ỏi khó khăn bằng cáchlấy cái vá múc ra từng vá nước hoặc trong bữa ăn anh Sáu gắp cho con cái trứng cá, hành độngđó thể hiện sự quan tâm của anh đối với con nhưng con bé lại hất cái trứng cá mà anh gắp cho,điều đó chứng tỏ bé Thu không chịu đón nhận sự quan tâm của anh cũng đồng nghĩa với vi ệcThu không đón nhận anh là ba, phản ứng của bé Thu có phần thiểu lễ độ nên anh Sáu tức giậnđã đánh con. Có người cho rằng đây là chi tiết thể hiện phản ứng dữ dội của con bé, đây có l ẽ làchi tiết phản ánh tình cảm mãnh liệt của Thu đối với ba, Thu càng phản ứng d ữ d ội bao nhiêu thìcàng thể hiện mãnh liệt tình cảm của em đối với người cha trong tâm tưởng của mình, rồi Thu b ỏsang nhà ngoại, chúng ta có thể khẳng định thái độ ngờ vực, lảng tránh, sự ương ngạnh của Thulà hoàn toàn không đáng trách vì em còn quá nhỏ, em đâu biết được rằng ng ười cha có t ấm hìnhchụp chung với má có thể biến dạng do bom đạn của chiến tranh do vậy Thu đã không nhận racha vì vết thẹo dài ở trên má, thái độ của Thu thể hiện tình yêu vẹn nguyên, sâu sắc em chỉ dànhcho người cha của mình chứ không có người đàn ông nào thay thế được cha trong trái tim nhỏbé của em nhân bé Thu không nhận ba là vì vết thẹo trên mặt, vì bé Thu chưa m ột lần được gặpcha. Vì sao điều ấy lại xảy ra? Chiến tranh. Chiến tranh đã khiến người cha không th ể ở bên đứacon, chiến tranh đã làm biến dạng hình hài của những con người, chiến tranh đã làm cho nh ữngkhát khao hạnh phúc bình dị không bao giờ thành hiện Thu nhận ra anh Sáu là cha thì thái độ của em hoàn toàn khác thỉnh thoảng lại th ở dài, cáithở dài đó già dặn hơn lứa tuổi của em, Thu lúc đứng vào góc nhà, lúc đứng tựa cửa và nhìn m ọingười đang vây quanh ba nó, anh Sáu rất muốn ôm con, hôn con nhưng hình như lại s ợ nó bỏchạy, nên anh chỉ đứng nhìn nó, anh nhìn với đôi mắt trìu mến lẫn buồn rầu, anh kh ẽ nói Thôi!Ba đi nghe con!. Con bé đã thét lên - Ba...a...a...ba!. Tiếng ba ấy dường như bật lên t ừ trongtiềm thức, tiếng ba bị dồn nén bao lâu giờ vỡ tung để cho mọi người phải xót xa, đau đớn, giờmọi người mới hiểu thực ra tình yêu thương ba của Thu vô cùng mãnh liệt và v ẹn nguyên “ nóhôn ba nó cùng khắp. Nó hôn tóc, hôn cổ, hôn vai và hôn cả vết thẹo dài bên má của ba nó n ữa”.Nó hôn vội vã, hôn cuống quýt, hôn hối hả, xen lẫn cả sự ân hận tiếc nối, dường như nụ hôn đóđể bù đắp cho ba trong ba ngày về phép, có ba ngày bên ba nó lại bỏ phí c ơ hội, nụ hôn đó cònbù đắp cho những tháng ngày cha con phải xa ta nhận thấy tình cảm của trẻ thơ đối với đấng sinh thành hết sức nguyên vẹn, mãnh liệt,đây không phải là sự khao khát mà là quyền của trẻ em, tất cả các thế lực ngăn cản quy ền củatrẻ em được gần gũi với đấng sinh thành đều là tội truyện Chiếc lược ngà” ngoài tình huống trên, truyện còn xuất hiện tình huống ở khu căncứ, anh Sáu dồn hết tình yêu thương và mong nhớ con vào việc làm cây l ược ngà để tặng connhưng anh đã hi sinh mà chưa kịp trao cây lược cho con gái. Tình cảm của anh Sáu dành chocon được thể hiện phần nào trong những ngày anh nghỉ phép, anh Sáu mong được gặp con,khát khao tình cha con cháy bỏng nên bất lực và vô cùng đau kh ổ trước sự bướng bỉnh của con,nhưng tình cảm đó còn biểu hiện tập trung và sâu sắc ở phần sau của truyện, khi anh Sáu ởtrong rừng tại khu căn day dứt, ân hận, ám ảnh anh suốt nhiều ngày sau khi chia tay với gia đình là việc anh đãđánh con khi nóng giận. Rồi lời dặn của đứa con “ Ba về! Ba mua cho con một cây lược ngheba!”khi kiếm được khúc ngà anh vô cùng vui mừng, sung sướng b ởi lẽ anh s ẽ làm chiếc l ượcbằng ngà voi, chiếc lược đó giúp anh gửi gắm niềm yêu mến dành cho con nên anh làm l ượccho con tỉ mỉ, kì công, trau truốt khắc lên lược dòng chữ “ Yêu nhớ tặng Thu con của ba”, quanhững chi tiết đó ta thấy anh Sáu đã thể hiện tình yêu thương con qua việc anh làm cây l ượctặng con, cây lược lúc này không phải chỉ là lời hứa mà còn là hiện thân của đứa con gái, vi ệcanh trau truốt mài từng chiếc răng lược cũng giống như anh đang thận trọng, trau truốt chăm sóccho đứa con bé bỏng, trong xa cách anh gửi niềm thương nhớ con vào vi ệc làm chiếc Sáu đã dành hết tâm trí, công sức vào việc làm cây lược. Cây l ược ngà đã tr ở thành v ậtquý giá, thiêng liêng với anh, nó làm dịu đi nỗi ân hận và chứa đựng bao tình cảm yêu mến, nh ớthương, mong đợi của người cha với đứa con xa cách. Nhưng một tình cảm đau thương lại đếnvới cha con anh Sáu, chiến tranh đã cướp đi cuộc sống của anh, anh không k ịp trao lại cây l ượccho đứa con bé bỏng của mình “ Trong giờ phút cuối cùng, không còn đủ sức trăng trối lại đi ểugì, hình như chỉ có tình cha con là không thể chết được, anh đưa tay vào túi, móc cây lược, đưacho tôi và nhìn tôi một hồi lâu”, có lẽ cái nhìn của anh trước lúc hi sinh nh ư một lời trăng tr ối, lờitrăng trối đối với đứa con bé bỏng của anh, anh gửi gắm tất cả tình yêu thương để bạn nhắn vớicon rằng cho đến tận lúc hi sinh anh vẫn luôn nghĩ về con, chiến tranh có thể cướp đi cuộc s ốngcủa anh nhưng không thể cướp đi tình cha con sâu chuyện “Chiếc lược ngà” không chỉ nói lên tình cha con sâu nặng, thắm thi ết mà còn g ợi chongười đọc bao cảm xúc xót tranh có sức tàn phá khốc liệt, hậu quả của chiến tranh len lỏi vào từng gia đình, khi ến chotình cảm con người bị ngăn trở, xa cách, chiến tranh khiến cho ng ười thân không nhận ra tìnhphụ tử khi nhận ra thì tình phụ tử phải chia lìa. Eo le của chiến tranh gây ra cho bao nhiêu ng ười,bao nhiêu gia dù chiến tranh đã lùi xa vài chục năm nhưng nỗi đau tinh thần vẫn luôn đeo đẳng bi ết baothế hệ. Vẫn còn đâu đó trên đất nước bình yên này những nỗi đau quằn quại của những nạnnhân chất độc da cam. Vẫn còn đó những gia đình li tán, còn đó những trái bom trong lòng đất...Biết bao giờ mới hết hậu quả của chiến đề truyện ngắn “Chiếc lược ngà” sẽ còn gợi biết bao suy ngẫm và hành động cho nhữngước mơ hòa giải giọt nước mắt của ông Hai trong truyện ngắn "làng" của Kim LânÔng Hai là một nhân vật độc đáo mang nhiều đặc điếm chung tiêu biểu cho ngườinông dân Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp nhưng đồng thời cũng mangnhững đặc điểm tính cách rất riêng, rất thú vị. Ông đã trở thành linh hồn của Làng vàthể hiện trọn vẹn tư tưởng của nhà văn và tác phẩm.“Làng” của nhà văn Kim Lân là một truyện ngắn đặc sắc về chủ đề tình yêu quêhương đất nước của người nông dân Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp. Nhânvật chính của tác phẩm - ông Hai – chẳng những là một người nông dân chất phác,hồn hậu như bao người nông dân khác mà còn là một người có tình yêu làng quê, đấtnước thật đặc phẩm ra đời năm 1948 lấy bối cảnh là cuộc tản cư kháng chiến của nhân dân ôngHai là người dân làng Chợ Dầu nhưng để phục vụ kháng chiến ông cùng gia đình tảncư đến một nơi khác. Chính tại nơi đây ông luôn trăn trở về cái làng thân yêu củamình với bao tình cảm, suy nghĩ vô cùng cảm động...Trước hết, ông là một người nông dân chất phác, nồng hậu, chân chất... như baongười nông dân khác. Đến nơi tản cư mới, ông thường đến nhà hàng xóm để cởi mởgiãi bày những suy nghĩ tình cảm của mình về cái làng Chợ Dầu thân yêu, về cuộckháng chiến của dân tộc. Ông đi nghe báo, ông đi nghe nói chuyện, ông bàn tán vềnhững sự kiện nổi bật của cuộc kháng chiến... Ông Hai không biết chữ, ông rất ghétnhững anh nào “ra vẻ ta đây” biết chữ đọc báo mà chỉ đọc thầm không đọc to lên chongười khác còn biết. Ông ít học nhưng lại rất thích nói chữ, đi đính chính tin làng mìnhtheo giặc ông sung sướng nói to với mọi người “Toàn là sai sự mục đích cả!”.... Tất cảnhững điều đó không làm ông Hai xấu đi trong mắt người đọc mà chỉ càng khiến ôngđáng yêu, đáng mến chỉ vậy, điều đáng quý nhất ở ông Hai chính là tấm lòng yêu làng tha thiết. Vàbiểu hiện của tấm lòng ấy cũng thật đặc làng đối với người nông dân quan trọng lắm. Nó là ngôi nhà chung cho cộng đồng,họ mạc. Đời này qua người nông dân gắn bó với cái làng như máu thịt, ruộtrà. Nó là nhà cửa, đất đai, là tổ tiên, là hiện thân cho đất nước đối với họ. Trước Cáchmạng tháng Tám, ông Hai thuộc loại "khố rách áo ôm", từng bị "bọn hương lí tronglàng truất ngôi trừ ngoại xiêu dạt đi, lang thang hết nơi này đến nơi khác, lần mò vàođến tận đất Sài Gòn, Chợ Lớn kiếm ăn. Ba chìm bảy nổi mười mấy năm trời mới lạiđược trở về quê hương bản quán. Nên ông thấm thía lắm cái cảnh tha hương cầuthực. Ông yêu cái làng của mình như đứa con yêu mẹ, tự hào về mẹ, tôn thờ mẹ, mộttình yêu hồn nhiên như trẻ thơ. Cứ xem cái cách ông Hai náo nức, say mê khoe vềlàng mình thì sẽ thấy. Trước Cách mạng tháng Tám, ông khoe cái dinh phần của viêntổng đốc làng ông "Chết! Chết, tôi chưa thấy cái dinh cơ nào mà lại được như cáidinh cơ cụ thượng làng tôi.". Và mặc dù chẳng họ hàng gì nhưng ông cứ gọi viên tổngđốc là "cụ tôi" một cách rất hả hê! Sau Cách mạng, "người ta không còn thấy ông đảđộng gì đến cái lăng ấy nữa", vì ông nhặn thức được nó làm khổ mình, làm khổ mọingười, là kẻ thù cùa cả làng "Xây cái lăng ấy cả làng phục dịch, cả làng gánh gạch,đập đá, làm phu hồ cho nó. [...] Cái chân ông đi tập tễnh cũng vì cái lăng ấy" Bây giờông khoe làng ông khởi nghĩa, khoe "ông gia nhập phong trào từ hồi kì còn trongbóng tối", rồi những buối tập quân sự, khoe những hố, những ụ, những giao thônghào cùa làng ông,... Cũng vì yêu làng quá như thế mà ông nhất quyết không chịu rờilàng đi tản cư. Đến khi buộc phải cùng gia đình đi tản cư ông buồn khổ lắm, sinh rahay bực bội, "ít nói, ít cười, cái mặt lúc nào cũng lầm lầm . Ở nơi tản cư, ông nhớ cáilàng của ông, nhớ những ngày làm việc cùng với anh em sao mà độ ấy vui thế. Ôngthấy mình như trẻ ra.[...] Trong lòng ông lão lại thấy náo nức hẳn lên.". Lúc này, niềmvui của ông chỉ là hàng ngày đi nghe tin tức thời sự kháng chiến và khoe về cái làngChợ Dầu của ông đánh lão đang náo nức, "ruột gan ông lão cứ múa cả lên, vui quá!" vì những tin khángchiến thì biến cố bất ngờ xảy ra. Một người đàn bà tản cư vừa cho con bú vừa ngấmnguýt khi nhắc đến làng Dầu. Cô ta cho biết làng Dầu đã theo giặc chẳng “tinh thần”gì đâu. Ông Hai nhận cái tin ấy như bị sét đánh ngang tai. Càng yêu làng, hãnh diệntự hào về làng bao nhiêu thì bây giờ ông Hai lại càng thấy đau đớn, tủi hổ bấy văn Kim Lân đã chứng tỏ bút lực dồi dào, khả năng phân tích sắc sảo, tái hiệnsinh động trạng thái tình cảm, hành động của con người khi miêu tả diễn biến tâmtrạng và hành động của nhân vật ông Hai trong biến cố tin làng Chợ Dầu theo giặc đã làm ông điếng người "Cổ ông lão nghẹn ắng hẳnlại, da mặt tê rân rân. Ông lão lặng đi, tường như đến không thở được. Một lúc lâuông mới rặng è è, nuốt một cái gì vướng ở cổ [...] giọng lạc hẳn đi", "ông Hai cúi gằmmặt xuống mà đi" và nghĩ đến sự dè bỉu của bà chủ nhà. Ông lão như vừa bị mất mộtcái gì quý giá, thiêng liêng lắm. Những câu văn diễn tả tâm trạng thật xúc động"Nhìn lũ con, tủi thân, nước mắt ông lão cứ tràn ra. Chúng nó cũng là trẻ con làngViệt gian đấy? Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng hắt hủi đấy? Khốn nạn, bằng ấy tuổiđầu...". Nỗi nhục nhã, mặc cảm phản bội hành hạ ông lão đến khổ sở ''Chao ôi! Cựcnhục chưa, cả làng Việt gian! Rồi đây biết làm ăn buôn bán ra sao? Ai người ta người ta buôn bán mấy. Suốt cả cái nước Việt Nam này người ta ghê tởm, người tathù hằn cái giống Việt gian bán nước...". Cả nhà ông Hai sống trong bầu không khí ảmđạm "Gian nhà lặng đi, hiu hắt, ánh lửa vàng nhờ nhờ ở ngọn đèn dầu lạc vờn trênnét mặt lo âu của bà lão. Tiếng thở của ba đứa trẻ chụm đầu vào nhau ngủ nhẹnhàng nổi lên, nghe như tiếng thở của gian nhà." ông Hai ăn không ngon, ngủ khôngyên, lúc nào cũng nơm nớp, bất ổn trong nỗi tủi nhục ê chề. Thậm chí ông không dámnhắc tới, phải gọi tên cái chuyện phản bội là "chuyện ấy". Ông tuyệt giao với tất cảmọi người, "không dám bước chân ra đến ngoài" vì xấu hổ. Và cái chuyện vợ chồngông lo nhất cũng đã đến. Bà chủ nhà bóng gió đuổi gia đình ông, chỉ vì họ là ngườicủa làng theo Tây. Gia đình ông Hai ở vào tình thế căng thẳng. Ông Hai phải đối mặtvới tình cảnh khó khăn nhất "Thật là tuyệt đường sinh sống! [..] đâu đâu có ngườiChợ Dầu người ta cũng đuổi như đuổi hủi. Mà cho dẫu vì chính sách của Cụ Hồ ngườita chẳng đuổi đi nữa, thì mình cũng chẳng còn mặt mũi nào đi đến đâu.".Từ chỗ yêu tha thiết cái làng của mình, ông Hai đâm ra thù làng "Về làm gì cái làngấy nữa. Chúng nó theo Tây cả rồi. Về làng tức là bỏ kháng chiến. Bỏ Cụ Hồ... Và "nướcmắt ông giàn ra". Ông lại nghĩ đến cảnh sống nô lệ tăm tối, lầm than trước kia. Baonỗi niềm của ông không biết giãi bày cùng ai đành trút cả vào những lời trò chuyệncùng đứa con thơ dạiHức kia! Thầy hỏi con nhé, con là con của ai?Là con thầy mấy lị con nhà con ở đâu?Nhà ta ở làng Chợ con có thích về làng Chợ Dầu không?Thằng bé nép đẩu vào ngực bố trả lời khe khẽ Lão ôm khít thằng bé vào lòng, một lúc lâu lại hỏiÀ, thầy hỏi con nhé. Thế con ủng hộ ai?Thằng bé giơ tay lên, mạnh bạo và rành rọtủng hộ Cụ Hồ Chí Minh muôn năm!Nước mắt ông lão giàn ra, chảy ròng ròng trên hai má. Ông nói thủ thỉừ đúng rồi, ủng hộ Cụ Hồ con lời đáp của con trẻ cũng là tâm huyết, gan ruột của ông Hai, một người lấydanh dự của làng quê làm danh dự của chính mình, một người son sắt một lòng vớikháng chiến, với Cụ Hồ. Những lời thốt ra từ miệng con trẻ như minh oan cho ông,chân thành và thiêng liêng như lời thề đinh ninh vang lên từ đáy lòng ông“Anh em đồng chí biết cho bố con ôngCụ Hồ trên đầu trên cổ xét soi cho bố con lòng bố con ông là như thế đấy, có bao giờ dám đơn sai. Chết thì chết có bao giờdám đơn sai”Nhà văn đã nhìn thấy những nét đáng trân trọng bên trong người nông dân chân lấmtay bùn. Nhân vật ông Hai hiện ra chân thực từ cái tính hay khoe làng, thích nói vềlàng bất kể người nghe có thích hay không; chân thực ở đặc điếm tâm lí vì cộng đồng,vui cái vui của làng, buồn cái buồn của làng và chân thực ở những diễn biến củatrạng thái tâm lí hết sức đặc trưng của một người nông dân tủi nhục, đau đớn vì cáitin làng mình phản bội. Nếu như trong biến cố ấy tâm trạng cùa ông Hai đau đớn, tủicực bao nhiêu thì khi vỡ lẽ ra rằng đó chỉ là tin đồn không đúng, làng Chợ Dầu củaông không hề theo giặc, sự vui sướng càng tưng bừng, hả hê bấy nhiêu. Ỏng Hai nhưngười vừa được hồi sinh. Một lần nữa, những thay đối cùa trạng thái tâm lí lại đượckhắc hoạ sinh động, tài tình "Cái mặt buồn thiu mọi ngày bỗng tươi vui, rạng rỡ hẳnlên. Mồm bỏm bẻm nhai trầu, cặp mắt hung hung đỏ hấp háy...". Ông khoe khắp nơi"Tây nó đốt nhà tôi rồi bác ạ Đốt nhẵn![...] Láo! Láo hết! Toàn là sai sự mục đích cả.,"Tây nó đốt nhà tôi rồi ông chủ ậ. Đốt nhẵn.[... ] Ra láo! Láo hết, chẳng có gì sất. Toànlà sai sự mục đích cả!". Đáng lẽ ra ông phải buồn vì cái tin ấy chứ? Nhưng ông đangtràn ngập trong niềm vui vì thoát khỏi cái ách "người làng Việt gian" Cái tin ấy xácnhận làng ông vẫn nhất quyết đứng về phía kháng chiến. Cái tin ấy khiến ông lạiđược sống như một người yêu nước, lại có thể tiếp tục sự khoe khoang đáng yêu củamình,... Mâu thuẫn mà vẫn hết sức hợp lí, điểm này cũng là sự sắc sảo, độc đáo củangòi bút miêu tả tâm lí nhân vật của nhà văn Kim đọc sẽ không thể quên được một ông Hai quá yêu cái làng của mình như ông nói thành lời hay khi ông nghĩ, người đọc vẫn nhận thấy rất rõ đặc điểm ngônngữ của vùng quê Bắc Bộ, của một làng Bắc Bộ "Nắng này là bỏ mẹ chúng nó","không đọc thành tiếng cho người khác nghe nhờ mấy", "Thì vườn", "có bao giờ dámđơn sai",... Đặc biệt là nhà văn cố ý thể hiện những từ ngữ dùng sai trong lúc quáhưng phấn của ông Hai. Những từ ngữ "sai sự mục đích cả" là dấu ấn ngôn ngữ củangười nông dân ở thời điểm nhận thức đang chuyển biến, muốn nói cái mới nhưng từngữ chưa hiếu hết. Sự sinh động, chân thực, thú vị của câu chuyện phẩn nào cũngnhờ vào đặc điểm ngôn ngữ này. Trong tác phẩm, nhà văn cũng thể hiện rõ sự thônghiểu về lề thói, phong tục của làng quê. Kim Lân đả vận dụng những hiểu biết đó hếtsức khéo léo vào việc xáy dựng tâm lí, hành dộng, ngôn ngữ nhân vật. Cốt truyện đơngiản, sức nặng lại dồn cả vào mạch diễn biến tâm trạng, vào lời thoại của nhân vậtnên câu chuyện có sức hấp dẫn riêng, ấn tượng riêng, độc yêu làng của ông Hai không đơn giản, hẹp hòi là tình yêu chỉ riêng đối với nơiông sinh ra và lớn lên. Ê-ren-bua từng tâm đắc “Tình yêu làng xóm trở nên tình yêuquê hương đất nước”. Và bởi thế, tình yêu làng của ông Hai gắn bó chặt chẽ với tìnhyêu nước với tinh thần kháng chiến đang lên cao của cả dân tộc. Đó cũng chính làbiểu hiện chung của tình yêu đất nước của người nông dân Việt Nam trong khángchiến chống số rất nhiều những nhân vật nông dân khác, người đọc khó có thể quên mộtông Hai yêu làng quê, yêu đất nước, thuỷ chung với kháng chiến, với sự nghiệp chungcủa dân tộc. Một ông Hai thích khoe làng, một ông Hai sốt sắng nghe tin tức chính trị,một ông Hai tủi nhục, đau đớn khi nghe tin làng mình theo giặc, một ông Hai vuimừng như trẻ thơ khi biết tin làng mình không theo giặc,... Ai đó đã một lần thấy nhàvàn Kim Lân, nghe ông nói chuyện còn thú vị hơn nữa hình như ta gặp ông đâu đótrong Làng rồi thì Hai là một nhân vật độc đáo mang nhiều đặc điếm chung tiêu biểu cho ngườinông dân Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp nhưng đồng thời cũng mangnhững đặc điểm tính cách rất riêng, rất thú vị. Ông đã trở thành linh hồn của Làng vàthể hiện trọn vẹn tư tưởng của nhà văn và tác học Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến 1945I. Đặc điểm cơ bản1. Nền VH được hiện đại hoáa. Hoàn cảnh xã hội mới, văn hóa mới của văn học- Thực dân Pháp đẩy mạnh 2 cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất 1897 - 1914 và lần thứ hai1919 - 1929. Cơ cấu XH có những biến đổi sâu sắc Giai cấp phong kiến mất dần địa vị thốngtrị. Nông dân bị bần cùng hóa. Tầng lớp tiểu tư sản đông dần lên. Giai cấp vô sản xuất hi ện. Giaicấp tư sản ra đời. Xã hội Việt Nam bị phân hóa dữ Chế độ thực dân nửa phong Từ 1940 - 1945, Pháp 2 lần bán nước ta cho pháp xít Đô thị hoá nhanh chóng, xuất hiện nhiều tầng lớp xã hội mới tư sản, tiểu tư sản, công nhân,dân nghèo thành thị…- Nhân vật trung tâm trong đời sống văn hoá là tầng lớp trí thức Tây học, ch ịu ảnh h ưởng sâusắc các trào lưu tư tưởng văn hoá văn học phương Nhu cầu văn hoá ngày càng cao. Nghề in, xuất bản, làm báo phát triển khá mạnh. Viết văn tr ởthành nghề kiếm cảnh lịch sử nói trên đòi hỏi VH phải nhanh chóng hiện đại Quá trình hiện đại hoá- Giai đoạn một+ Chuẩn bị các điều kiện vật chất cần thiết cho công cuộc hiện đại hoá Chữ quốc ngữ ngày càngphổ biến, báo chí, dịch thuật phát triển…+ Thành tựu HĐH chỉ mới ở một số truyện kí. Nghệ thuật còn hạn chế.+ Chủ yếu là thơ văn của các chí sĩ cách mạng Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh…- Giai đoạn hai Những năm hai mươi Đây là giai đoạn quá độ, giao trình HĐH đạt nhiều thành tựu lớn- Văn xuôi ghi được thành tựu ban đầu của các tên tuổi Phạm Duy Tốn, Nguyễn Bá Học, HoàngNgọc Phách… ở ngoài Bắc, Hồ Biểu Chánh, Bửu Đình… ở trong Nam. Tiểu thuyết “Tố Tâm” củaHoàng Ngọc Phách như một cái mốc đánh dấu sự ra đời của tiểu thuyết và văn chương lãngmạn Việt Về thơ ca thì có thi sĩ Tản Đà và Trần Tuấn Khải. Tản Đà là nhà thơ “của hai thế kỷ”. Trần TuấnKhải với cảm hứng yêu nước, với chất dân ca, đậm đà hồn dân Kịch nói với Vũ Đình Long, Nam Xương…- Thơ văn yêu nước và cách mạng có thêm những cây bút mới như Trần Huy Li ệu, Phạm TấtĐắc, đặc biệt là truyện kí rất hiện đại của Nguyễn Ái Quốc viết bằng tiếng lại, cả thơ và văn xuôi đã có dấu hiệu phân chia khuynh hướng sáng tác theo kiểu lãng mạnvà hiện Giai đoạn ba Từ năm 1930-1945VH được HĐH và cách tân trên mọi lĩnh vực. các thể loại phát triển mạnh mẽ- Văn thơ yêu nước, thành tựu nổi bật là “Từ ấy” 1937-1946 của Tố Hữu và “Nhật ký trong tù”của Hồ Chí Văn học hiện thực xuất hiện nhiều cây bút thực sự tài năng Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố,Nguyên Hồng, Vũ Trọng Phụng, Nam Cao… “Số đỏ” và “Chí Phèo” là hai kiệt Văn học lãng mạn - Thơ mới 1932-1941 được đánh giá là “một thời đại thi ca” với một l ớp thisĩ tài hoa như Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Chế Lan Viên, Huy Cận, Xuân Diệu, Nguyễn Bính, HànMặc Tử, Tiểu thuyết lãng mạn với tên tuổi các nhà văn xuất sắc Khái Hưng với Nửa chừngXuân, Nhất Linh với Đoạn tuyệt, Thạch Lam với Gió đầu mùa, Nguyễn Tuân với “Vang bóng mộtthời” Nhịp độ phát triển mau lẹsố lượng, cách tân, trưởng thành, kết tinh tài năng…Vũ Ngọc Phan “Ở nước ta, một năm đã có thể kể như ba mươi năm của người”. Vì sao vậy?- Yêu cầu thúc bách của thời đạinhư đã nói ở trên.- Sức sống mãnh liệt của dân tộc và tiếng Tác động của các cuộc vận động cách mạng theo tinh thần dân chủ từ đầu TK đến 1945- Đóng góp của các tài năng, của tầng lớp trí thức Tây học. Họ tìm thấy ở nghề văn lẽ sống và cơhội bày tỏ tấm lòng chung thuỷ của mình đối với đất nước, tổ Văn chương trở thành hàng hoá, viết văn trở thành một nghề kiếm Sự phân hoá phức tạp thành nhiều xu hướng văn họcSự khác nhau về quan điểm nghệ thuật và khunh hướng thẩm mĩ và thái độ chính trị đối với chủnghĩa thực dân và quan điểm về mối quan hệ giữa văn học và chính trị của người cầm bút dẫnđến sự phận hoá VH thành hai bộ phậna. Bộ phận VH hợp pháp- Tuy có tính dân tộc và chứa đựng những yếu tố tư tưởng lành mạnh, tiến bộ nhưng nó khôngcó ý thức cách mạng và tinh thần chống đối trực tiếp chế độ thực dân. Có đóng góp mang ýnghĩa quyết định đối với quá trình Do có sự khác biệt về khuynh hướng nghệ thuật nên phân hoá thành hai xu h ướng chính+ Xu hướng lãng mạn chủ nghĩa thể hiện trực tiếp và sâu sắc cái tôi trữ tình tràn đầy cảm xúc,phát huy cao độ trí tưởng tưởng để diễn tả những khát vọng, ước mơ của cá nhân.+ Xu hướng HTCN chú trọng diễn tả, phân tích, lí giải hiện thực XH với thái độ phê phán trên tinhthần dân chủ và nhân Bộ phận VH bất hợp pháp và nửa hợp pháp- Đây là sáng tác của những nhà văn-chiến sĩ- Phác hoạ được hình tượng cao đẹp người chiến sĩ-nhân vật tiên tiến của thời đại yêu nước,căm thù bọn cướp nước và bán nước, hiên ngang, bất khuất, mang lí tưởng m ới của thời đại, lạcquan chiến thắng- Hạn chế về nghệ thuậtII. Thành tựu VH1. Về nội dung, tư tưởnga. Chủ nghĩa yêu nướcphát huy truyền thốngPhan Bội Châu Dân là dân nước, nước là nước dânNguyễn Ái Quốc-HCM và các nhà văn vô sản gắn CNYN với lí tưởng XHCNTrong VH hợp pháp yêu nước là yêu tiếng Việt, ghi lại những cảnh sắc, phong tục tập quán củaquê nghĩa nhân đạo mang nội dung mới đối tượng VH là những con người bình thường trongXH, là tầng lớp khổ cực, lầm than;b. Tinh thần dân chủđóng góp mớiđem đến cho truyền thống nhân đạo những khía cạnh nộidung mới- Đối tượng chủ yếu của VH là những con người bình thường trong XH đặc bi ệt là các tầng lớpnhân dân cực khổ, lầm Sự thức tỉnh ý thức cá nhân của người cầm bút. Họ đấu tranh chống lễ giáo phong kiến hàkhắc để giành quyền hưởng hạnh phúc cá nhân, thể hiện khát vọng sống của con người, khôngchấp nhận một cuộc sống tù túng, vô nghĩa, nô lệ…- Chủ nghĩa anh hùng mang nội dung mới vai trò của nhân dân, lí tưởng c ộng sản, tinh thầnquốc tế vô Về hình thức thể loại và ngôn ngữ VH- Các thể loại phát triển mạnh đặc biệt là truyện ngắn và thơ ca- Ngôn ngữ VH đạt trình độ cao, hiện đại"Trở về với mẹ ta thôi" - của Đông Đức BốnHy vong chúng ta làm được mẹ vui long nhiều hơn đời ra bể vào ngòiMẹ như cây lá giữa trời gió rungCả đời buộc bụng thắt lưngMẹ như tằm nhả bỗng dưng tơ vàngĐường đời còn rộng thênh thangMà tóc mẹ đã bạc sang trắng trờiMẹ đau vẫn giữ tiếng cườiMẹ vui vẫn để một đời nhớ thươngBát cơm và nắng chan sươngĐói no con mẹ xẻ nhường cho nhauMẹ ra bới gió chân cầuTìm câu hát đã từ lâu dập ai biết đến mẹ tôiBạc phơ mái tóc bên trời hoa mơCòng lưng gánh chịu gió mưaNát chân tìm cái chửa chưa có gìCần lòng bán cái vàng điĐể mua những cái nhiều khi không mua lông vịt chè chaiTrời trưa mưa nắng đôi vai lại gầyXóm quê còn lắm bùn lầyPhố phường còn ít bóng cây che đườngLời rào chim giữa gió sươngCon nghe cách mấy thôi đường còn khi cát bụi đầy trờiSao mẹ lại bỏ kiếp người lầm thanCon vừa vượt núi băng ngànVề nhà chỉ kịp đội tang ra đồngTrời hôm ấy chửa hết giôngĐất hôm ấy chẳng còn bông lúa vàngĐưa mẹ lần cuối qua làngBa hồn bảy vía con mang vào mồMẹ nằm như lúc còn thơMà con trước mẹ già nua thế về với mẹ ta thôiGiữa bao la một khoảng trời đắng cayMẹ không còn nữa để gầyGió không còn nữa để say tóc buồnNgười không còn dại để khônNhớ thương rồi cũng vùi chôn đất mềmTôi còn nhớ hay đã quênÁo nâu mẹ vẫn bạc bên nắng chờNhuộm tôi hồng những câu thơTháng năm tạc giữa vết nhơ của trờiTrở về với mẹ ta thôiLỡ mai chết lại mồ côi dưới minh truyện ngắn " Chiếc Lá cuối cùng"Truyện ngắn là một hình thức tự sự loại nhỏ, dung lượng ngắn, có cốt truyện và ít nhân vật, miêutả một khía cạnh, tính cách, một mảnh trong cuộc đời nhân vật. Tuy là truyện ngắn nh ưng nó đềcập đến những vần đề lớn lao trong cuộc sống như truyện “Chiếc lá cuối cùng” của O Hen - ritrong chương trình Ngữ văn 8. Một tác phẩm đặc sắc đã để lại trong lòng người đọc những nỗiniềm trăn trở…O Hen-ri sinh năm 1862 mất năm 1910 là nhà văn Mĩ chuyên viết truyện ngắn. Truyện của ôngnổi tiếng là dí dỏm, dễ hiểu, giàu tình cảm và luôn có những cái k ết bất ng ờ và khéo léo. Nh ữngtruyện của O Hen-ri thường nhẹ nhàng nhưng toát lên tinh thần nhân đạo cao cả, tình th ươngyêu người nghèo khổ, rất cảm động. Được bạn đọc yêu thích hơn cả như Căn gác xép, Têncảnh sát và gã lang thang, Quà tặng của các đạo sĩ,… và “kiệt tác” Chiếc lá cuối lá cuối cùng là một trong những truyện ngắn hay nhất của O Hen-ri. Câu chuy ện k ể v ề Xiu,Giôn-xi và cụ Bơ-men – những họa sĩ nghèo cùng sống trong một căn hộ thuê gần công viên Oasinh-tơn. Giôn-xi bị bênh viêm phổi khá nặng, cô thấy tuyệt vọng và tin rằng khi chiếc lá cu ốicùng của cây thường xuân cạnh cửa sổ rụng xuống, cô cũng sẽ lìa đời. Kì diệu thay, sau m ộtđêm mưa bão khủng khiếp, chiếc lá ấy vẫn dũng cảm bám vào cành cây bằng sự kiên c ườngmãnh liệt. Điều đó đã khiến Giôn-xi thay đổi ý nghĩ về cái chết của mình, cô không còn muốnchết nữa mà đã lạc quan, vui vẻ và có niềm tin vào cuộc sống hơn. Qua lời kể của Xiu, Giôn-ximới biết rằng chiếc lá ấy là do cụ Bơ-men đã vẽ vào ngay cái đêm mà chiếc lá cuối cùng rụngxuống, trong khi đó, để cứu sống Giôn-xi, cụ Bơ-men đã hi sinh mạng sống của gì đã khiến chiếc lá cuối cùng vẫn còn đấy, vẫn đeo bám vào cây dây leo mỏng manh mặccho mưa gió trút xuống? Điều gì đã khiến Giôn-xi – con người tàn nhẫn có ý nghĩ quái gở ấy lấylại niềm tin vào cuộc sống? Phải chăng tất cả đều là một phép màu? Vâng! Đúng là có phépmàu, không phải phép màu nhiệm xảy ra ở trong truyện cổ tích mà ta thường đọc, cũng khôngphải do ông tiên hay thần linh nào ban tặng mà đó là phép màu của tình yêu thương. Chính c ụBơ-men - con người có tình yêu thương, giàu đức hi sinh cao cả ấy đã làm cho chiếc lá vẫn cònmãi, vẫn tươi xanh mặc bao giông gió vùi dập phũ phàng. Chiếc lá vẫn đeo bám lấy sự sống đểGiôn-xi thấy rằng cuộc sống này đáng quý biết bao! Đáng trân trọng bi ết bao! Tại sao lại khôngyêu quý, trân trọng từng phút giây được sống mà lại đặt cược mạng sống của mình vào nhữngchiếc lá thường xuân? “Kiệt tác” của cụ Bơ-men cũng đã cho Giôn-xi biết rằng cô đã quá y ếuđuối, tệ bạc với cuộc đời và chính bản thân mình. Xiu cũng là một nhân vật đáng ca ngợi, m ột côgái với tình bạn cao đẹp, chung thủy, hết lòng với Giôn-xi. Dù hoàn cảnh cũng nghèo khó nh ưngcô luôn động viên Giôn-xi chiến thắng bệnh tật, khát khao sống với cu ộc đời. Từ hi ện th ực đầyrẫy những bất công vô lý, đem đến bao bất hạnh cho những con người nghèo kh ổ, nhà văn luônkhơi dậy được vẻ đẹp tâm hồn của nhân vật qua tình huống truyện thật bất ngờ và cảm công của “Chiếc lá cuối cùng” còn phải kể đến tài năng viết truyện điêu luy ện của O Hen-riđặc biệt là nghệ thuật đảo ngược tình huống hai lần và việc kể, tả tâm trạng nhân vật. O Hen-riđã rất khéo léo trong việc lựa chọn ngôi kể thứ ba để có thể kể hết câu chuyện của nhân vật m ộtcách khách quan, biểu thị thái độ đánh giá, bộc lộ các khía cạnh khác nhau cùa từng nhân được xây dựng theo kiểu có nhiều tình tiết hấp dẫn, sắp xếp chặt chẽ và khéo léo khiếnngười đọc bị lôi cuốn vào câu chuyện một cách say mê, hứng thú. Kết thúc truyện thật bất ngờkhiến cho người đọc phải ngẫm nghĩ rất nhiều về sự hi sinh cao cả của cụ Bơ-men mà Giôn-xi lạikhông phản ứng gì thêm, tạo sự dư âm cho truyện ngắn đặc sắc lá cuối cùng là một tác phẩm có giá trị cao đối với nền văn học thế giới. Một truy ện ngắngởi thông điệp đến mọi người quan niệm về nghệ thuật và tình người thật đẹp trong cuộc sống Đó chính là người nghệ sĩ phải sáng tạo ra những tác phẩm không chỉ bằng tài năng mà bằng cảtrái tim. Một trái tim chan chứa tình yêu thương giữa con người với con người. D ư âm của câuchuyện sẽ mãi lắng đọng trong tâm trí ngưởi đọc xoay quanh chiếc lá cuối cùng – một “kiệt tácnghệ thuật” của O có một truyện ngắn nào mang một sức sống mãnh liệt và để lại nhiều cảm xúc như “Chiếclá cuối cùng” của O Hen – ri. Có lẽ chất triết lý trong truyện ngắn đã tạo nên v ẽ đẹp trường tồn vàchính vì thế, “chiếc lá” ấy còn mãi với thời bạn nào muốn add nói nhiều hơn về Nguyên Duy, quả thực mình cũng rất thích thơ Nguy ễnDuy nó nhẹ nhàng nhưng rất thâm thúy, ý tứ. Đọc " Ánh Trăng" để thấymột tâm hồn đầy sự trảinghiệm , bài " Tre Việt Nam" giúp cây tre gắn liền với phẩm chất, hình ảnh người Việt Duy tên thật là Nguyễn Duy Nhuệ, sinh tại xã Đông Vệ, huyện Đông Sơn nay là ph ườngĐông Vệ, thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa. Năm 1965, từng làm tiểu đội trưởng tiểu độidân quân trực chiến tại khu vực cầu Hàm Rồng, một trọng điểm đánh phá ác liệt của không quânMỹ trong những năm chiến tranh Việt Nam. Năm 1966 ông nhập ngũ, trở thành lính đường dâycủa bộ đội thông tin, tham gia chiến đấu nhiều năm trên các chiến trường đường 9 - Khe Sanh,Đường 9 - Nam Lào, Nam Lào, chiến trường miền Nam, biên giới phía Bắc năm 1979. Sau đóông giải ngũ, làm việc tại Tuần báo Văn nghệ Hội Nhà văn Việt Nam và là Trưởng Đại diện củabáo này tại phía Duy làm thơ rất sớm, khi đang còn là học sinh trường cấp 3 Lam Sơn, Thanh Hóa. Năm1973, ông đoạt giải nhất cuộc thi thơ tuần báo Văn nghệ với chùm thơ Hơi ấm ổ rơm, Bầu trờivuông, Tre Việt nam trong tập Cát trắng. Ngoài thơ, ông cũng viết tiểu thuyết, bút ký. Năm 1997ông tuyên bố "gác bút" để chiêm nghiệm lại bản thân rồi tập trung vào làm l ịch th ơ, in thơ lên cácchất liệu tranh, tre, nứa, lá, thậm chí bao tải. Từ năm 2001, ông in nhi ều thơ trên giấy dó. Ông đãbiên tập và năm 2005 cho ra mắt tập thơ thiền in trên giấy dó gồm 30 bài th ơ thi ền thời Lý, Tr ầndo ông chọn lọc khổ 81 cm x 111 cm có nguyên bản tiếng Hán, phiên âm, d ịch nghĩa và dịch th ơtiếng Việt, dịch nghĩa và dịch thơ tiếng Anh với ảnh nền và ảnh minh họa của Duy được tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật năm phẩm chính[ThơCát trắng 1973Ánh trăng 1978Đãi cát tìm vàng 1987Mẹ và em 1987Đường xa 1989Quà tặng 1990Về 1994Bụi 1997Thơ Nguyễn Duy2010, tuyển tập những bài thơ tiêu biểu nhất của ôngThể loại khácEm-Sóng kịch thơ - 1983Khoảng cách tiểu thuyết - 1986Nhìn ra bể rộng trời cao bút ký - 1986Thành tựu nghệ thuậtThơ Nguyễn Duy nhiều bài có cái ngang tàng nhưng vẫn trầm tĩnh và giàu chiêm nghiệm vì th ếcứ ngấm vào người đọc và trong cái đà ngấm ấy có lúc khiến người ta phải gi ật mình suy nghĩ,nhiều bài thơ của ông được bạn đọc yêu thích Tre Việt nam, Ánh trăng, Ngồi buồn nhớ mẹ taxưa, Đò Lèn, Sông Thao,.... Ông được đánh giá cao trong thể thơ lục bát, một th ể th ơ có cảmgiác dễ viết nhưng viết được hay thì lại rất khó. Thơ lục bát của Nguyễn Duy được viết theophong cách hiện đại, câu thơ vừa phóng túng lại vừa uyển chuyển chặt ch ẽ. Nguyễn Duy đượcgiới phê bình đánh giá là người đã góp phần làm mới thể thơ truyền thống này. Bài thơ Tre Việtnam của ông đã được đưa vào sách giáo khoa phổ thông của Việt Duy còn có bộ 3 bài thơ theo thể tự do nổi tiếng được công chúng bi ết t ới viết về nhữngtrăn trở, suy nghĩ của ông về tương lai đất nước, tương lai của con người và môi sinh. Bài thơđầu mang tên Đánh thức tiểm lực viết từ năm 1980 đến 1982 với những suy tư về tiềm lực vàtương lai của đất nước. Bài thơ thứ hai được viết lúc ông đến thăm Liên Xô và đến năm 1988mới hoàn thành mang tên "Nhìn từ xa...Tổ quốc". Bài thơ viết về những trì trệ, bất cập mà ôngmắt thấy tai nghe trong thời kì bao cấp, với những câu thơ rất mạnh mẽ, "như những nhát daocứa vào lòng người đọc" Lê Xuân Quang. Bài thơ thứ 3 viết sau đó chục năm, mang tên Kim,Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ vẫn cùng thi pháp với 2 bài thơ trước nhưng chủ đề lại rộng hơn nhữngsuy nghĩ về thiên nhiên, không gian và tương lai con người.[1]Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã nói như sau "Hình hài Nguyễn Duy giống như đám đất hoang, cònthơ Nguyễn Duy là thứ cây quý mọc trên đám đất hoang đó."
xin làm hạt phù sa